• Điện thoại(+84.4) 22 42 01 68 - 36 28 58 33
  • Emailcontact@davincipharma.com
Bác sĩ Trần Hữu Tước

Bác sĩ Trần Hữu Tước

BS Trần Hữu Tước sinh ngày 13.10.1913 trong một gia đình trung lưu tại làng Bạch Mai, xã Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, nay thuộc quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội, là một trong những học sinh Việt Nam xuất sắc nhất của trường Trung học An-be Sa-rô (Albert Sarraut), vào đầu thập kỷ 30.

Danh y Đào Công Chính

Quê ở làng Cõi,huyện Vĩnh Lại, phủ Trung Hồng tỉnh Thượng Hộng (nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, tp Hải Phòng). Gia đình toàn là những người thông minh, học cao. Thuở nhỏ ông nổi tiếng là thần đồng, năm 13 tuổi đã đi thi Hương, đậu Hương cống đời Hậu Lê. Kỳ thi Hội, ông đứng thứ nhì, đạt danh hiệu Bảng nhãn, vì vậy, dân làng còn gọi ông là Bảng Cõi. Năm 1673 ông được triều đình cử làm phó sứ  đoàn Hộ sĩ dương sang Trung quốc.

Danh y Đặng Xuân Bảng

Tự Hy Long, hiệu Thiện Đình.  Người xã Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đậu tú tái 1846, 1848, cử nhân 1850, đạu tiến sĩ 1856, giữ chức tuần phủ Hải Dương, vì để mất thành nên bị cách chức. Sau đó được phục hồi hàm Quang lộc, tự Thiếu khanh, lĩnh chức Đốc học tỉnh Nam Định. Ông thích nghiên cứu thiên văn và y học, nhất là dược thảo. Năm 1901 ông soạn quyển  Nam Phương Danh Vật Khảo.

Danh y Đinh Nhật Thận

Tự Tử Úy, hiệu Bạch Mao Am. Người  xã Thanh Liêu, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Năm 1838 đậu tiến sĩ và được bổ nhiệm làm tri phủ, nhưng sau đó vì phạm lỗi nên bị cách chức. Năm 1843 được phục chức như cũ nhưng ông cáo bệnh không nhận. Ông tinh thông nho học và y học. Ông rất giỏi thơ Nôm, đọc sách chỉ xem qua một lần nà nhớ hết, viết văn không cần thảo trước.

Danh y Hoàng Đôn Hòa

Là lương dược danh tiếng dưới triều Lê Thế Tông, quê ở Đa Sĩ (Xã Kiến Hưng, tỉnh Hà Tây). Đã chữa bệnh rộng rãi và cứu cho nhân dân qua khỏi vụ dịch năm 1533 bằng thuốc Nam tại địa phương. Ông cũng đã trị cho cho quân đội triều Lê khỏi dịch sốt rét và thổ tả ở Thái Nguyên năm 1547 bằng bài Tam Hoàng Hoàn (Hoàng nàn, Hoàng lực và Hùng hoàng. Ông cũng đã cụ thể hóa nguyên tắc ‘Thanh tâm tiết dục’ của Tuệ Tĩnh bằng ‘Tinh công hô hấp’ dược ghi lại trong sách ‘Hoạt Nhân Toát Yếu’. Tác phẩm y học của ông còn để lại là ‘Hoạt Nhân Toát Yếu’

Danh y Đỗ Minh Luân

Quê huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sống vào cuối đời Tự Đức. Các quan ở Hà Nội mỗi lần bị bệnh đều phải mời ông chữa giúp. Ông soạn bộ ‘Y Lí Toàn Khoa’ gồm hai phần: Phần thứ nhất nói về Âm dương, ngũ hành, ngũ vận lục khí, vinh vệ, lục phủ ngũ tạng, mỗi thứ có một bài phú bằng tiếng Nôm do ông soạn. Phần thứ hai nói về việc quan sát thanh sắc theo bí quyết của Biển Thước, mạch lý, tính dược, bát quái đồ, cổ phương, Phụ khoa, Nhi khoa, điều trị chứng nan y, thời  phương và cách nấu cao.

Danh y Lê Trác Du

Hiệu Hồng Sinh Đường. Không biết quê quán ở đâu. Năm 1858 soạn bộ Nam Thiên Dục Bảo Toàn Thư, gồm 5 quyển, ghi chép các bài thuốc gia truyền Nam và Bắc.

Danh y Ngyễn Anh Nhân

Không rõ quê quán. Soạn bộ Y Học Tùng Thư (Hà Nội 1933-1939), Hải Thượng Lãn Ông Toàn Thư (Hà Nội 1942), Nhật Hoa Y Học (Hà Nội 1938), Sách Chữa Bệnh Sởi Và Bệnh Đậu (Hà Nội 1940), Sách Thuốc Gia Truyền Kinh  Nghiệm (Hà Nội 1941), Giản Tiện Phương Kinh Nghiệm Cấp Cứu (Hà Nội 1941).

Danh y Nguyễn Đại Năng

Quê ở xã Hiệp Sơn, huyện Kinh Môn (nay thuộc xã Hiệp Sơn – An Lưu, huyện Kịn Môn tỉnh Hải Hưng). Giữ chức Tảnhị ở Thái y viện phụ trách coi Thái y viện. Dùng châm cứu chữa bệnh cho nhiều người, được Hồ Hán Thương rất yêu mến. Ông đã soạn quyển ‘Châm Cứu Tiệp Hiệu Diễn Ca’ bằng thơ Nôm để phổ biến rộng rãi phương pháp châm cứu. Đây là quyển sách châm cứu đầu tiên ở Việt Nam.

Danh y Nguyễn Mạnh Bổng

Không rõ quê quán. Soạn Bắc nam Dược Điển (Hà Nội 1942), Bắc Dược Bản Thảo Tiểu Từ Vưng (Hà Nội 1931), Bách Bệnh Cẩm nang (Hà Nội 1939), Bí Phương Công Bố (Hà Nội 1939), Trường Xuân Linh Dược (Hà Nội 1941), Phương Dược Chỉ Nam (Hà Nội 1942), Sách Thuốc Gia Truyền (Hà Nội 1939), Sách Thuốc Tùy Thân (Hà Nội 1941).